Đại tá Nhà văn Trần Thế Tuyển ( ảnh trái ) tác giả cùng Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu ( ảnh phải )
Trước mặt là con sông Sẻ, thời chống Pháp nhà ông nội tôi và nhà ông nội anh Nguyễn Huy Hiệu đều uống nước chung một dòng sông. Nhà ông nội tôi bên cạnh chiếc lò vôi lúc nào cũng ngùn ngụt khói. Còn nhà ông nội anh Hiệu nằm phía trong, nơi có cánh đồng mỏi cánh cò bay.
Khi tôi vào học cấp ba thì anh Hiệu đã nhập ngũ. Năm 1970, tôi rời mái trường cấp 3 Hải Hậu lên đường tòng quân, bố tôi bảo: “ Con đi cố gắng rèn luyện, học tập nhé. Như bác Hiệu, quê mình ấy” .
Nhớ lời bố dặn, tôi đã cố gắng phấn đấu học tập, theo gương thế hệ cha anh, trong đó có anh Nguyễn Huy Hiệu. Nhưng làm sao có thể phấn đấu bằng các bậc tiền bối ấy được. Những người con ưu tú như anh Hiệu – Thượng tướng – AHLLVT – Viện sĩ ; TS, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu là tấm gương sáng, là niềm tự hào của quê hương miền chân sóng chúng tôi.
Ý CHÍ VÀ DẤN THÂN
So với bạn bè cùng trang lứa, anh Nguyễn Huy Hiệu có cái may nhưng cũng có cái chưa may. May ở chỗ, anh Hiệu sinh ra trong một gia đình gia giáo, có truyền thống văn hoá và yêu nước. Ngược dòng lịch sử, cả ngàn năm trước, dòng họ Nguyễn đã cống hiến cho đất nước, dân tộc nhiều vị tướng tài như tướng quân Nguyễn Bặc thời vua Đinh Tiên Hoàng.
Nguyễn Bặc hiệu Định Quốc Công, là khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, chấm dứt loạn 12 sứ quân vào thế kỷ 10 trong lịch sử Việt Nam. Do lập công lớn, ông được vua Đinh phong tước Định Quốc Công, vị trí như chức Tể tướng của các triều đại sau này. Ông là một trong số những người tận trung với nhà Đinh, đồng thời là bạn đồng hương, sinh và mất cùng năm với Vua Đinh Tiên Hoàng. Dân gian xem ông là biểu tượng của tinh thần hào hiệp, trượng nghĩa và trung thành. Theo gia phả họ Nguyễn và tài liệu Lược sử họ Nguyễn tại Việt Nam, Nguyễn Bặc được tôn là bậc tiền Thủy Tổ họ Nguyễn chính thống ở Việt Nam.
Theo đó, Nguyễn Huy Hiệu là hậu duệ của Nguyễn Bặc. Đó là một trong cái may mắn, diễm phúc của Nguyễn Huy Hiệu. Tuy vậy, anh Hiệu cũng có cái không may, thiệt thòi. Trước khi tòng quân ra chiến trường( 1965), Nguyễn Huy Hiệu không được học bằng anh bằng em. Bù lại, đây cũng chính là một trong những động lực để anh Hiệu phấn đấu vượt lên chính mình. Với nghị lực và ý chí của chàng trai mang dòng máu Nguyễn Bặc, từ một “cậu bé nhà quê”, anh Hiệu dấn thân cho cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc nửa cuối thế kỷ XX và trở thành một trong những vị tướng lừng danh với những chiến công và tấm lòng nhân hậu.
Những ai đã gặp hoặc trực tiếp sống cùng Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, đặc biệt đọc cuốn hồi ký “ Một thời Quảng Trị “ của ông sẽ phần nào hiểu được cuộc đời chiến trận của vị tướng, người anh hùng trẻ tuổi này. Cuộc đời người lính Cụ Hồ, vị tướng trận Nguyễn Huy Hiệu gắn liền với các số 7. Dân gian có câu “ 3 chìm 7 nổi 9 lênh đênh”. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Huy Hiệu cũng nổi chìm, lênh đênh theo phận chung của con người. Nhưng nhờ ý chí, nghị lực, hồng phúc tổ tiên và cả sự may mắn nữa, người con trai quê hương Hải Long này đã nổi lên như một tấm gương sáng về sự rèn luyện, hy sinh, cống hiến cho dân, cho nước; xứng danh hậu duệ của các bậc tiền bối họ Nguyễn, trong đó có tướng Nguyễn Bặc lừng danh cách đây hơn 1000 năm.
Thời cắp sách tới trường, chúng tôi đã nghe danh Nguyễn Huy Hiệu. Nhiều câu chuyện truyền miệng kể cho chúng tôi về anh Hiệu như trong cổ tích, huyền thoại. Có người bảo, Nguyễn Huy Hiệu là nguyên mẫu để nhà viết kịch đồng hương Hải Hậu Đào Hồng Cẩm viết lên vở kịch nổi tiếng một thời “Đại đội trưởng của tôi”. ..Có người lại nói, Nguyễn Huy Hiệu là nguồn cảm hứng để các nhà thơ, nhạc sĩ, nhà văn sáng tạo những tác phẩm đề đời, trong đó có ca khúc Đợi (nhạc Huy Thục; thơ Vũ Quần Phương)…
Giai thoại là giai thoại. Cho đến sau này được gần gũi anh Nguyễn Huy Hiệu, tôi cảm nhận rằng, lời đồn, tiếng thơm ấy chẳng ngoa. Cuộc đời chiến trận của Nguyễn Huy Hiệu gắn liền với những bước ngoặt, mốc son của đất nước và quân đội ta: chiến dịch Mậu Thân (1968), chiến dịch Đường 9 Nam Lào (1971), Chiến dịch Quảng Trị (1972); Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975); Biên giới phía Bắc (1979) và cả khi đất nước không có giặc ngoại xâm nhưng phải chiến đấu với ”giặc“ thiên tai, bão lũ. Đó là lúc anh Nguyễn Huy Hiệu làm Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN trực tiếp phụ trách phòng chống bão lụt…
NHÂN HẬU VÀ SẺ CHIA
Được mọi người công nhận là một người lính Cụ Hồ luôn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ;
thành công trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Nhưng Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu luôn xác định được vị trí của mình. Mình là ai, đang ở đâu và phải làm gì?Nguyễn Huy Hiệu tâm sự: những gì mình có được hôm nay, trước hết nhờ hồng phúc tổ tiên, ông bà; công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ; sự rèn luyện, giáo dục của Đảng, Quân đội;
đặc biệt sự hy sinh, giúp đỡ, bao bọc của đồng đội và nhân dân.
Điều ấy trở thành chân lý, lẽ sống của Nguyễn Huy Hiệu. Vì thế, khi đương chức cũng như khi nghỉ hưu, Nguyễn Huy Hiệu phấn đấu hết sức mình để lo cho đồng đội, đặc biệt những người đã hy sinh vì Tổ quốc. Mảnh đất chiến trường xưa Quảng Trị đã trở thành quê hương thứ 2 của ông. Nguyễn Huy Hiệu vận động mọi người chung tay lo cho liệt sĩ và thân nhân liệt sĩ đang gặp khó khăn. Hằng năm, Nguyễn Huy Hiệu và người bạn đời của ông – TTUT BS Lại Thị Xuân
đều trở về Quảng Trị. Trước dòng sông Thạch Hãn linh thiêng và trước hàng ngàn ngôi mộ đồng đội, nhiều mộ chưa xác định được danh tính, Nguyễn Huy Hiệu không cầm được nước mắt. Ông tự hứa với mình phải suy nghĩ và hành động đúng lương tâm và trách nhiệm với đồng đội đã quên mình vì nghĩa lớn.
Nhiều người còn nhớ về bà má Miền Nam và tấm bản đồ Chi khu quân sự Lái Thiêu trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (tháng 4 năm 1975). Lúc ấy, Nguyễn Huy Hiệu là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27, Quân đoàn 1. Nhờ có tấm bản đồ bà má Miền Nam (Sáu Ngẫu) trao, Nguyễn Huy Hiệu và lãnh đạo, chỉ huy Trung đoàn 27 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Điều đáng ghi nhận, nhờ đó đã hạn chế đến mức thấp nhất xương máu của bộ đội trước ngày toàn thắng. Tôi có dịp nhiều lần cùng anh Hiệu trở lại mảnh đất chiến trường xưa nơi cửa ngõ Sài Gòn ấy, mới thấy hết sự nghĩa tình, thủy chung của những người lính Bộ đội Cụ Hồ của Trung đoàn mang tên Triệu Hải.
Đối với nơi chôn nhau, cắt rốn, Nguyễn Huy Hiệu được mọi người ghi nhận là một trong những người con đầy ắp nghĩa tình với quê hương. Với mối quan hệ của mình, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu đã vận động bạn bè ủng hộ để xây dựng các công trình văn hoá, dân sinh, góp sức, chia sẻ với quê hương như trường học, bệnh xá, nghĩa trang liệt sĩ, nhà truyền thống… Đặc biệt ông góp sức xây dựng khoa Đông Y thuộc Bệnh viện Đa khoa Hải Hậu, góp phần chăm sóc sức khỏe nhân dân, xứng danh Bệnh Viện Anh hùng . Ngay cạnh dòng sông Sẻ nơi thẫm đẫm kỷ niệm tuổi thơ của chúng tôi, có những công trình văn hoá mang đậm dấu ấn Nguyễn Huy Hiệu.
VƯỢT LÊN CHÍNH MÌNH,
GƯƠNG SÁNG CHO THẾ HỆ MAI SAU
Một trong điểm sáng vượt lên chính mình của Nguyễn Huy Hiệu là việc học và hành. Như đã nói ở trên, Nguyễn Huy Hiệu không có may mắn cùng bạn bè trang lứa học hết phổ thông. Nhưng đó chính là sự thôi thúc để ông vượt lên chính mình thành công không chỉ trong chiến trận mà cả nghiên cứu khoa học. Nguyễn Huy Hiệu là tác giả của gần chục cuốn sách viết về khoa học quân sự, đường lối đối ngoại quân sự và về phòng chống lũ lụt, bảo vệ môi trường….Đó là “sân chơi“, sở trường của Viện sỹ, Tiến sỹ Nguyễn Huy Hiệu khi ông còn đương chức. Đọc các tác phẩm của Nguyễn Huy Hiệu, người ta nhận ra, tác giả của nó không chỉ có tâm huyết, trách nhiệm mà còn có sự nghiêm túc, chỉn chu trong nghiên cứu khoa học. Ai cũng biết, “phương châm 4 tại chỗ” trong phòng chống bão lụt ngày càng thiết thực với đất nước hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương hằng năm có trên 10 trận bão lớn này. Tác giả của nó chính là Thượng tướng TS Nguyễn Huy Hiệu. Ông đúc kết thực tiễn và đưa ra phương châm ấy ngay khi đảm nhiệm trọng trách : Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Phó Trưởng ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương. “Phương châm 4 tại chỗ”, hiện nay không chỉ áp dụng khi có bão lụt, thiên tai mà cả các trường hợp khác. Khi đất nước có sự biến, lâm nguy, người ta cũng áp dụng “phương châm 4 tại chỗ” của Nguyễn Huy Hiệu.
Các cụ xưa dạy rằng: “nhân vô thập toàn”. Dù Nguyễn Huy Hiệu đã thành đạt trên mọi lĩnh vực của cuộc sống, nhưng ông cũng không thể “ thập toàn “. Nếu có điều gì đó khiếm khuyết cũng là lẽ thường. Song cuộc đời và sự nghiệp của Thượng tướng – AHLLVTND – Viện sĩ – TS Nguyễn Huy Hiệu là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ hôm nay và con cháu mai sau noi theo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu.
Xin chúc mừng người anh, người đồng hương, đồng đội của quê hương Hải Hậu anh hùng, văn hoá, nông thôn mới ./.
TP Hồ Chí Minh, tháng 12
– 2021.