Thứ Sáu, Tháng Ba 29, 2024
Trang chủTin văn hóaBÁC CẢ TRỌNG

BÁC CẢ TRỌNG

Trần Thế Tuyển

Chúng tôi gọi ông là “bác cả”; không chỉ vì ông nhiều tuổi hơn chúng tôi, thuộc lớp đàn anh, mà còn bởi nhiều lẽ. Nhân dịp kỷ niệm 71 năm báo QĐND ra số đầu tiên, xin phép có đôi dòng phác họa chân dung ông- Đại tá nhà báo Phạm Đình Trọng (bút danh Khánh Tường ), nguyên Trưởng Ban Đại diện Thường trực phía Nam báo QĐND.

Nhà báo Phạm Đình Trọng.

THẦY GIÁO CỦA NHIỀU THẾ HỆ

Sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho nơi cạnh dòng sông Đáy thơ mộng tại huyện Ý Yên tỉnh Nam Định, ngay từ nhỏ Phạm Đình Trọng đã ham mê văn chương. Từ sự nghiêm khắc của người cha đến tình thương yêu bao la của người mẹ, con đường học vấn của Phạm Đình Trọng khá hanh thông từ thuở ấu thơ. Cũng như bao nhiêu gia đình thôn quê ngày ấy, cuộc sống lam lũ, cơ cực, nhưng bố mẹ đã chắt chiu, dành dụm cho Phạm Đình Trọng học hành bằng anh, bằng em. Mới lớp 5, ông đã phải xa quê, sang Ninh Bình; lên lớp 8, ông phải ra Cấp 3 Nam Định. Suốt 10 năm “Phổ thông”, ông khá giỏi đều các môn, nhưng dụng công dùi mài là toán-lí-hóa. Hết cấp 3, con đường ông chọn là ngành vật lí, trường ông nhắm tới là Trường Tổng hợp. Tuy nhiên,  cái mác “đều các môn” đã hại ông; “tổ chức” đặt ông vào ngành sư phạm, mà lại là “Sư phạm – Văn”. Nhập học rồi, mấy lần ông tính bỏ học hoặc chuyển lớp nhưng rồi chính các thày giáo, với khả năng giảng dậy văn học siêu hạng, đã ghim ông vào ghế “sinh viên –Văn”.  Tốt nghiệp Đại học Sư phạm năm 1963, ông ở lại trường học thêm năm thứ 3.

Hè năm 1964. Ông Trọng chưa kịp ra trường thì cuộc chiến tranh chống Mỹ bước vào thời kỳ khốc liệt, nước nhà cần một lượng lớn thanh niên nhập ngũ. Trường ĐHSP Hà Nôi có lẽ là trường Đại học đầu tiên lấy “ông Cử” làm nghĩa vụ quân sự. Thế là, cũng như bao người cùng trang lứa, Phạm Đình Trọng tạm gác bút nghiên lên đường đánh giặc. Trí thức nhập ngũ, ông được mang hàm binh nhì ở Trung đoàn bộ binh 673 thuộc Quân khu Tây Bắc, rồi hàm binh nhất ở Trung đoàn 910 Quân chủng Phòng không – Không quân. Tại sân bay Cát bi (Hải Phòng) ông gặp một sức ép tâm lí đầu tiên: Mấy anh bạn cùng ĐHSP Hà Nội, nhưng ở khoa Trung ngữ, mang hàm trung úy (hơn hẳn một ghệch bạc!). Nhưng rồi đố ai phát hiện ông Trọng…rầu đời. Trái lại ông còn giúp vào công tác tư tường của chi bộ vào năm sau, lúc Nhà nước tuyển khá nhiều sinh viên vào nghĩa vụ quân sự.

…Cuối năm 1967 (ông Trọng mang hàm chuẩn úy), Tổng cục Chính trị điều ông về làm giáo viên trường Thiếu sinh quân mang tên người công nhân anh hùng Nguyễn Văn Trỗi. Tôi có may mắn, khi về công tác tại báo QĐND được trực tiếp làm việc cùng ông, mới hiểu hết tình nghĩa thầy trò “Trường Trỗi ” mà ông là một trong những người thày trẻ nhất. Năm tháng qua đi, lớp lớp thế hệ học sinh trường Trỗi lớn lên, trưởng thành cùng đất nước, quân đội, nhiều anh trở thành tướng lĩnh, có người là Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng…khi gặp Thầy Trọng vẫn ” mực thước ” như xưa. Tôi hỏi một vị tướng là học trò cũ của thầy Trọng, vì sao có được tình cảm ấy, vị tướng trận trả lời: ” Bởi nhờ có các thầy cô, chúng tôi mới có ngày hôm nay. Riêng thầy Trọng không chỉ là người thầy, ông còn là người cha, người anh cả thương yêu, dẫn dắt chúng tôi ngay từ khi còn cắp sách đến trường”. Đó là sự thật. Qua thầy Trọng, tôi có dịp quen biết nhiều anh chị, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp làm học trò của thầy. Trần Kiến Quốc (con trai cụ Trần Tử Bình, nguyên Đại sứ VN tại Trung Quốc ) là một người trong số ấy. Anh Trần Kiến Quốc chia sẻ: ” Chúng mình nhớ thầy, biết ơn thầy vì xưa thầy lo lắng, dạy dỗ chúng mình. Nay, tuổi cao, sức khỏe không còn như trước, nhưng thầy vẫn luôn bên cạnh tụi mình. Lo cho người đang sống và cả những người đã đi xa”. Điển hình cho tình nghĩa thày trò trường Nguyễn Văn Trỗi là thời kì trường gặp nạn dịch viêm màng não ở Quế Lâm (Trung Quốc). Cả tháng liền học sinh bị cấm túc trong phòng ngủ. Lúc ấy các thày cô như những bảo mẫu, vất vả vô cùng! Trải qua đại dịch Covid càng thấy tấm lòng của các thày cô trường Trỗi là bao la. Trong dịch Covid-19, gia đình xúm lại giữ vài em nhỏ trong nhà đã khó; đằng này, nơi đồng đất nước người, thày phải giữ chân 40-45 em cấp 2 hoặc cấp 3 trong một phòng ngủ, giường 2 tầng kê sát nhau suốt 24/24 tiếng cả tháng trời thì cực biết chừng nào! Trần Kiến Quốc tặng tôi hai tập sách ” Sinh ra trong khói lửa”; Tập 2, với 1006  trang do NXB Trẻ xuất bản năm 2005 và tập 5 dầy 694 trang xuất bản năm 2020. Đó là hai trong bộ sách đồ sộ, đầy ắp tâm huyết và nghĩa tình của thầy và trò trường Trỗi. Duyên may khi làm tập 2,Trần Kiến Quốc mời tôi viết bài. Tại trang 969, đăng bài của tôi với tựa đề: Cảm nhận về ngôi trường. Tôi có dịp bày tỏ cảm xúc của mình về thầy giáo chủ nhiệm Phạm Đình Trọng với các học trò cũ của mình. Thầy Trọng có sức hút với các thế hệ học trò không chỉ bởi tầng kiến thức văn hóa mà còn ở lối sống của ông với học trò. Trong giảng dạy nghiêm khắc, mực thước, nhưng đời thường thầy Trọng gần gũi, thân thiết như người ruột thịt trong gia đình học trò. Và, khi cần ông nhập vai là bạn của học trò để có thể chia sẻ, giúp đỡ họ.

Nhà báo Phạm Đình Trọng và nhà báo Trần Thế Tuyển.

Nhà báo Phạm Đình Trọng không chỉ là thầy của các thế hệ học trò, đặc biệt học trò trường Trỗi, mà ông còn là thầy của nhiều thế hệ nhà báo, dù ông chưa bao giờ nhận “chức danh ” ấy. Bằng tác phẩm báo chí của ông, đặc biệt các bài ký ” chân trang ” hoặc các bài bình luận văn chương (văn học cổ), người ta thấy rõ sự uyên thâm kiến thức và dạt dào tính nhân văn của Phạm Đình Trọng. Tôi có nhiều kỷ niệm với thầy Trọng về việc này. Đó là dịp nhà thơ Trần Anh Thái, lúc đó là Trưởng phòng báo QĐND mời chúng tôi về nhà dùng cơm thân mật. Thực khách có các nhà thơ : Nguyễn Đức Mậu, Trần Đăng Khoa, Hồng Thanh Quang… Trà dư, tửu hậu, thầy Trọng phát động mỗi người đọc một bài thơ tâm huyết. Chúng tôi lần lượt trình bày, có người cao hứng “diễn thơ”. Đến lượt ông, người mà chúng tôi hay đùa vui : ” nhà Nho còn sót lại cuối thế kỷ XX của báo QĐND ” đọc một bài thơ chữ Hán mà ông ngẫu hứng, viết ra. Nghe xong, các nhà thơ quân đội đều ngỡ ngàng vì quen biết nhau đã lâu mà chưa ai nghe ông làm thơ, lại là thơ chữ Hán!  Ai nấy tấm tắc về sự uyên thâm, sâu sắc của nhà báo, thầy giáo Phạm Đình Trọng. Lần khác, ấy là dịp ông về làng quê nghèo khó của tôi nơi miền chân sóng Hải Hậu dự lễ mừng thọ cha chúng tôi vào tuổi 80. Xuất khẩu thành thơ, nhà báo Phạm Đình Trọng đã đọc bài thơ chữ Hán, thể Đường luật, tặng cha tôi. Ông giải nghĩa để mọi người cùng nghe. Mấy cụ đồ Nho nổi tiếng ở quê tôi nghe xong đều gật gù, lấy làm tâm đắc, thán phục…

NGƯỜI LAN TỎA VỐN CỔ TRUYỀN THỐNG

Nói nhà báo Phạm Đình Trọng là người tiên phong lan tỏa văn hóa cổ, trong đó có quan họ với đất phương Nam cũng chẳng quá lời. Tôi là một trong những người trong cuộc hiểu rõ điều ấy. Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, văn hóa vùng miền trên đất nước ta hòa nhập. Người miền Bắc nghe cải lương, bài chòi, dân ca Nam Bộ đã quen, nhưng bà con miền Nam nghe quan họ, chèo, chầu văn v.v…thực sự chưa nhiều. Nhà báo Phạm Đình Trọng, lúc ấy là Trưởng Ban Đại diện Thường trực phía Nam báo QĐND tâm sự với chúng tôi: “Nên tạo điều kiện để cán bộ, chiến sĩ và nhân dân phía Nam tiếp cận với văn hóa dân gian phía Bắc”. Nói đi đôi với làm, ngoài việc chỉ huy công việc của Ban Đại diện, mỗi khi có dịp ông lại tạo điều kiện để các nhà nghiên cứu văn hóa, văn nghệ sĩ lan tỏa văn hóa cổ truyền ở phía Nam. Tôi nhớ có dịp, trụ sở đóng quân của Ban Đại diện tại số 63 Lý Tự Trọng TP HCM nhộn nhịp khách vào ra, trong đó có các đoàn chèo của Trung ương, các tỉnh và đặc biệt đoàn Dân ca quan họ Hà Bắc, sau là Đoàn quan họ Bắc Ninh. Trưởng ban Phạm Đình Trọng không những chỉ đạo, các phóng viên tác nghiệp mà còn kết nối với các đơn vị, địa phương để các nhà nghiên cứu văn hóa, văn nghệ sĩ đến tìm hiểu và biểu diễn vốn cổ văn hóa dân tộc. Bản thân ông cũng say mê nghiên cứu. Tôi nhớ có lần, nhân dịp ra Hà Nội họp Đảng ủy, ông rủ tôi tranh thủ lên Bắc Ninh, đến tận làng Diềm, được coi là cái nôi quan họ cổ, để nghiên cứu về quan họ. Ông tâm đắc đúc kết về cái duyên quan họ và kỹ thuật ” vang rền nền nẩy ” mà người hát quan họ nào cũng biết. Say mê quan họ, vào Sài Gòn, có đêm trực, rảnh rỗi, qua điện thoại, ông nhờ một nghệ sỹ quan họ danh tiếng ” dạy” hát. Nhờ thế, sau này có dịp vui, không từ chối thịnh tình của bè bạn, thể theo đề nghị của anh em, ông tự tin trình bày các bài quan họ cổ như “Ăn ở trong rừng”, “Tuấn Khanh”, ” Thân lươn bao quản lấm đầu”…thật ” tròn vành, rõ tiếng”.

SỨC BỀN NGỌN LỬA

Nghỉ hưu hơn 20 năm nay, bác cả-nhà báo-thầy giáo Phạm Đình Trọng như ngọn lửa vẫn bùng cháy. Ông tích cực tham gia công tác xã hội, viết báo, làm sách ghi lại những kỷ niệm đẹp của người lính làm báo. Những tập sách đậm đặc chất liệu sử và giàu tính nhân văn do ông tổ chức hoặc trực tiếp làm chủ biên lần lượt xuất hiện. Đó là các cuốn : Nghề báo, nợ đời, tình người ; Sinh ra trong khói lửa; Trần Công Mân, nhân cách và tài năng; Trung tướng Lê Nam Phong, cuộc đời và chiến trận…Đặc biệt, ông còn tham gia giảng dạy tại các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí, truyền thông và làm công tác xã hội chia sẻ với những mảnh đời cơ nhỡ, bất hạnh…
Sự trải nghiệm hơn nửa thế kỷ làm báo chiến sĩ và vốn sống phong phú, kiến thức uyên thâm như mảnh đất màu mỡ để ông cho ra đời các tác phẩm như cây giữa mùa xuân. Chúng tôi, lớp học trò, đàn em trông đợi ở ông những tác phẩm để đời nói về đất và người một thời ông trải nghiệm.

Có chuyện vui xin kể để kết thúc “phác họa ” chân dung bác cả của chúng tôi. Ấy là chuyện khổ vì trùng tên. Chuyện rằng: Đầu năm 1982, đang làm phóng viên thường trú của báo QĐND tại các tỉnh phía Nam ông Trọng nhận được một bức thư, chữ đánh bằng máy nhưng kí bằng bút mực, của một người trùng tên. Ông này xin ông Trọng báo Quân đội nhường cho cái tên “Phạm Đình Trọng”. Chẳng một chút nghĩ ngợi, ông trả lời “đồng ý”. Từ đó ông lấy bút danh là Khánh Tường. Nhưng rồi anh em ngoài Tòa soàn-Hà Nội vì yêu mến ông sao đó, cứ đổi lại tên cũ: Phạm Đình Trọng. Khổ vì sự trùng là như thế này:  Ông Phạm Đình Trọng kia, về sau thường xuyên có bài trên mạng xã hội ” phản biện ” những vấn đề nóng, nhậy cảm của đất nước. Đài BBC và một số báo chí, phát thanh nước ngoài phỏng vấn ông này gây sốt nóng trên mạng xã hội. Tác giả PĐT không biết có ” nổi tiếng ” không. Nhưng nhà báo Đại tá Phạm Đình Trọng, Trưởng Ban Đại diện phía Nam báo QĐND thì gánh “hệ lụy”. Nhiều tờ báo phương Tây và một số tờ báo lá cải, báo phản động gọi điện về tận nhà riêng quấy nhiễu liên tục, kể cả khi họ biết sự thật. Nhớ có lần tôi đến đơn vị lấy tài liệu viết báo. Trong bữa tiệc tiễn nhà báo, chủ nhà là một vị tướng dày dạn trận mạc chần chừ một lúc, rồi tâm sự với tôi: ” Nói thật nhé, chúng tôi rất quý trọng, tin tưởng báo QĐND. Nhưng buồn nhất, lâu lâu lại xuất hiện người đi ngược đường. Trước có Bùi Tín, nay có Phạm Đình Trọng. Tôi có nghe danh ông Trọng nhà báo Quân đội trung kiên lắm, mà sao giờ lại thế? Nói ngược con đường mình và đồng đội đã chọn”. Tôi giải thích cho vị tướng và bạn bè hiểu rõ sự thật. Nhưng nghe chừng mọi người vẫn bán tín, bán nghi. Về cơ quan, tôi kể lại chuyện đó cho bác cả Trọng nghe và đề nghị ông viết bài nói rõ việc nhầm lẫn đáng tiếc này. Bác cả Trọng tủm tỉm cười. Lát sau ông mới nói : “Lời thị phi như gió thoảng. Cứ để gió cuốn đi”…
Cách ứng xử ấy của bác cả Trọng phải có độ lùi thời gian tôi mới ngộ ra. Đó là sức bền ngọn lửa.Tôi chợt nhớ ai đó đã viết: ” Đối với người cầm viết, đó là cách ứng xử văn hóa trên cánh đồng chữ nghĩa “./.

                                                                                        Sài Gòn, tháng 10-2021

Bài viết liên quan

1 BÌNH LUẬN

  1. Thầy giáo của chúng tôi

    Thật ra ngày ở trường Trỗi, chúng tôi không được học thầy Phạm Đình Trọng mà thầy dạy văn cho khối cấp 2, khi chúng tôi đã là học sinh cấp 3. Tốt nghiệp, ra trường, vào lính, đi học, làm việc… hàng chục năm sau cho tới đầu những năm 90 thế kỷ trước, khi vào sống trong TPHCM, tôi mới được gặp lại thầy. Lần đầu tiên đúng vào dịp chuẩn bị Họp mặt truyền thống, BLL phía Nam họp với thầy ở 63 Lý Tử Trọng – cơ quan đại diện Báo QĐND phía Nam nơi thầy làm việc. Hai thầy trò gắn bó với nhau từ đó.
    Năm 2000, sau Họp mặt truyền thống 35 năm (1965 – 2000), anh em phía Nam đưa ra ý tưởng làm 1 cuốn sách ghi lại những kỉ niệm về trường; thầy đã động viên, làm đi, nếu khó đã có thầy!
    Và không thể ngờ được rằng từ “Sinh ra trong khói lửa” cuốn đầu với gần 400 trang (thậm chí không dám in trên bìa chữ “Tập 1”, vì chỉ nghĩ, ra được cuốn này là xong!), chúng tôi đã có tập 2, 3, 4 mà tập nào cũng dày trên 1000 trang với nhiều bài vở (cả văn xuôi lẫn thơ ca) cùng ảnh tư liệu… sống động.
    Thường thì bài vở anh em gửi đến đều qua tay tôi đọc, sửa; sau đó gửi cho thầy biên tập lần 2. Cứ lần nào gặp thầy để bàn giao phần đã biên tập, 2 thầy trò cũng phải “có tí ti”. Phải nói 2 thầy trò rất tâm đầu ý hợp. Thậm chí có lần rời nhà từ chiều đến tối mịt chưa thấy về, vợ tôi đã gọi cho thầy: “Em trả chồng em lại cho thầy đấy”.
    Năm 2010, chúng tôi đã mời được thầy tham gia chuyến trở lại Quế Lâm, thăm “đất cũ người xưa”. Cũng chính chuyến đi này, GS Hoàng Tranh (Viện phó Viện KHXH Quảng Tây) đã gặp thầy và chúng tôi, nêu ý tưởng biên soạn cuốn sách “Minh chứng về tình hữu nghị Trung Việt” dựa vào các tư liệu của trường Nguyễn Văn Trỗi. Tôi có vinh dự được cùng thầy tham gia soạn thảo cùng Viện KHXH và Đại học Sư phạm Quảng Tây. Thật vui vì cuối năm 2015, cuốn sách được Nxb Tri thức Thế giới Bắc Kinh phát hành. Bạn đã cùng BLL nhà trường tổ chức ra mắt sách tại HN, Đã Nẵng và cuối cùng ở TPHCM. Thầy đã có 1 bài phát biểu rất xúc tích trong lễ ra mắt tại Hội hữu nghị Việt Trung TPHCM.
    Và cho đến 2020 vừa rồi, tôi lại được cùng thầy tham gia biên tập “Sinh ra trong khói lửa” tập 5.
    Với tôi đó là những kỉ niệm khó quên!

ĐỂ LẠI BÌNH LUẬN

Nhập nội dung bình luận
Nhập tên của bạn

Bài viết phổ biến

Bình luận gần đây